Khoảng một phần tư trong số 14.000 lá thư mà ông gửi đi ấy đã có hồi âm. Người ta gọi ông là “anh quân bưu của liệt sĩ”. Ông là Đào Thiện Sính - 65 tuổi, hiện ở thị trấn Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
Ông Đào Thiện Sính tại một nghĩa trang liệt sĩ ở Đồng Nai (ảnh nhân vật cung cấp).
Đi Tây Ninh về, gặp tôi ông “khoe” ngay: “Tôi vừa trao cho Bưu điện Khánh Vĩnh trên 2.000 bức thư sau chuyến đi vừa rồi. Hy vọng sẽ có nhiều người thân của các liệt sĩ nhận được tin về con em mình”. Cuộc trò chuyện của chúng tôi liên tục bị ngắt quãng bởi hàng chục cuộc điện thoại từ mọi miền của đất nước gọi đến ông. Người thì hỏi thêm về các địa danh ghi trong thư cho rõ, người thì hỏi đường đi đến nơi người thân họ đang nằm bằng phương tiện gì thuận lợi nhất; lại có tiếng thút thít từ đầu dây bên kia bày tỏ lòng biết ơn không nói nên lời.
Nhỏ nhẹ và khiêm nhường, bao giờ ông cũng “vâng” một tiếng trước khi trả lời cho một ai đó. Tôi hỏi ông: “Có lúc nào anh cảm thấy mệt mỏi khi phải trả lời liên tục như vậy không?”. Ông cười hiền lành: “Vui chớ mệt chi! Suốt mấy chục năm qua, tôi luôn được động viên bằng những câu hỏi như vậy. Ban đầu cũng thấy phiền thật, nhưng rồi nghĩ, người ta đang cần chia sẻ, nhất là những chuyện rất thiêng liêng như thế, tôi có bận rộn một chút song bù lại, người ta cảm thấy nhẹ lòng. Tôi cũng đang đi tìm người thân của tôi hy sinh trong chiến tranh như thế, nên tôi hiểu tâm trạng của họ”.
Bắt đầu từ người anh
Ông Sính sinh năm 1947, tại xã Ninh Hải, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Dù có người anh là Đào Chí Nguyện - sinh năm 1937 - đã đi B, nhưng thấy bạn bè trong làng nhập ngũ ào ào, ông Sính cũng rất sốt ruột và rồi lên đường theo chân anh. Là lính thông tin, ông đã đi qua hầu khắp các vùng rừng Quảng Trị, sang Nam Lào, rồi xuyên Tây Nguyên và dừng lại ở Tây Ninh trước khi giải phóng miền Nam. 8 năm ngang dọc trên khắp các chiến trường, lúc nào ông Sính cũng canh cánh bên lòng lời dặn của mẹ lúc tiễn ông ra trận - đó là làm sao gặp được người anh nhập ngũ từ năm 1966.
Ông Sính đã có mặt giữa Sài Gòn trong ngày vui toàn thắng, nhưng tin tức về người anh vẫn bóng chim tăm cá. Ông khoác ba lô trở về Hải Dương, coi như xong nghĩa vụ đời trai thời chiến. Người mẹ đón đứa con sau 8 năm xa cách, niềm vui chưa kịp trọn thì bà nhận hung tin: Người con cả - anh Đào Chí Nguyện - đã hy sinh từ năm 1969 tại “mặt trận phía nam”.
Sau này đồng đội anh Nguyện cho thêm thông tin là anh hy sinh tại Tây Ninh, đúng nơi mà ông Sính có thời gian đóng quân trước khi tiến về Sài Gòn. Bắt đầu từ đó, lòng ông nung nấu một quyết tâm là tìm bằng được mộ người anh của mình. “Hy sinh ở “mặt trận phía nam” là một khái niệm không gian mông lung, nhưng đã xác định tại Tây Ninh thì tôi phải tìm bằng được, vì đó là nơi tôi từng trải qua trong chiến tranh” - ông Sính nói lý do vì sao ông hạ quyết tâm như thế. Năm 1976, ông Sính bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm người anh của mình. Và Tây Ninh là địa chỉ đầu tiên mà ông hướng đến.
Rồi thành “anh quân bưu của liệt sĩ”
Những tưởng cuộc kiếm tìm sẽ suôn sẻ, nhưng năm 1979, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, một lần nữa, Đào Thiện Sính tái ngũ, khoác ba lô lên đường, để lại cho người vợ trẻ hai mặt con. Trong những cánh rừng bom rơi đạn nổ trên chiến trường K, lòng Sính vẫn không nguôi lời mẹ dặn ngày nào. Mãi đến 3 năm sau - năm 1982 - ông xuất ngũ lần thứ hai và lại tiếp tục cuộc kiếm tìm. Những địa danh Hòa Thành, Tân Châu, Mỏ Công, Tràng Diệp, Bến Cầu... của tỉnh Tây Ninh lại đi về trong những giấc ngủ chập chờn hằng đêm.
Ông Sính kể: “Hồi đó đi lại khó khăn lắm, mà tôi lại đang công tác ở Bưu điện Khánh Vĩnh nên không có nhiều thời gian. Mỗi năm được bao nhiêu ngày phép là tôi dành cả cho những cuộc kiếm tìm ấy. Hễ mỗi lần đặt chân đến một nghĩa trang liệt sĩ nào đó là lòng tôi lại thắp lên một chút hy vọng mong manh rằng, từ một tấm bia bất kỳ trong nghĩa trang sẽ hiện lên dòng chữ “Liệt sĩ Đào Chí Nguyện”. Nhưng rồi vô vọng.
Sau mỗi lần vô vọng như vậy, lại cồn cào trong tôi một nỗi niềm: Hàng vạn liệt sĩ “sinh Bắc tử Nam” đã có tên có tuổi, có cả quê quán hẳn hoi thế này nhưng người thân của các anh lại không hề hay biết con em họ đang nằm ở phương trời nào trong cái khái niệm “mặt trận phía nam” mênh mông ấy, sao mình lại không thông báo cho họ?”.
Bắt đầu từ đó, ông Sính đã chuyển công việc tìm người anh ruột thịt của ông sang tìm cả “những người anh” trên khắp đất nước. Đến nghĩa trang nào ông cũng ghi chép tất cả tên tuổi của liệt sĩ trên bia, để sau một chuyến đi, ông lại viết thư gửi về thông báo cho người thân của họ. Ông thành “anh quân bưu của liệt sĩ” tự lúc nào ông cũng không hay.
14.000 lá thư và những tấm lòng
Tôi hỏi ông Sính: “Làm sao anh có thể nhớ đến con số 14.000?”. Ông nói ngay: “Con số trên là do Bưu điện Khánh Vĩnh cung cấp chứ tôi thống kê làm gì. Họ thấy tôi làm cái việc “không giống ai”, lại rất ý nghĩa nên người ta lưu lại số liệu. Hồi đầu, tôi phải bỏ tiền túi ra mua giấy, bút, bì thư và cả tem thư nữa, nhưng đến khoảng năm 1996 - 1997, có cái thông tư liên tịch trong đó có quy định, hễ gửi thư thông báo cho thân nhân liệt sĩ địa chỉ con em họ thì được miễn phí nên tôi cũng đỡ phần nào.
Có mấy anh cựu binh ở TPHCM thấy tôi lặn lội tội nghiệp, lại tốn kém nên hằng năm họ gửi tặng tôi vài ngàn cái bì thư và giấy bút. Năm ngoái tôi đến Long An buổi trưa, vào một quán ăn bên đường, ăn xong tôi gửi tiền, cô chủ quán hỏi: “Có phải bác vừa lên tivi? Bác là người tìm mộ liệt sĩ?”. Tôi xác nhận. Cô chủ quán nói: “Cháu biếu bác bữa cơm ấy”.
Tôi cảm động vô cùng. Thì ra, công việc tưởng như “khùng khùng” ấy cũng đã có người chia sẻ. Không biết bao anh xe ôm đồng hành cùng tôi trong những cuộc kiếm tìm mấy chục năm qua; tôi cũng không nhớ hết là mình đã qua đêm biết bao ngôi nhà của người dân những nơi heo hút ở Quảng Trị, Cà Mau, Long An, Tây Ninh... Chỉ nhớ rằng, ở những nơi mà tôi đã đi qua ấy, luôn có những tấm lòng chở che và giúp đỡ chí tình, y như thời tôi còn tại ngũ những năm chiến tranh”.
Dù chưa tìm ra xương thịt của anh mình, nhưng điều an ủi nhất đối với ông Sính trong hành trình mấy chục năm làm “quân bưu cho liệt sĩ” là, trong số 14.000 lá thư ông gửi đi, đã có trên 3.000 lá thư có hồi âm. Có nhiều gia đình liệt sĩ ở ngoài Bắc, nghe theo lời cô đồng, thầy bói, đã lặn lội vào tận Kon Tum để bốc mộ người thân, nhưng sau khi nhận thư ông, họ mới biết là con em mình đang nằm ở Long An.
Ông đã chứng kiến nhiều người vợ liệt sĩ đã đi tìm chồng suốt mấy chục năm chỉ để “trả nghĩa” cho nhà chồng trước khi “đi bước nữa”. Lại cũng có những trường hợp, trên bia mộ chỉ ghi mỗi cái tên là Cưởng, NG, ông lại phải gửi thư cho gần 50 phòng LĐTBXH của những huyện nào mang tên chữ cái là NG. Cuối cùng rồi lá thư ấy cũng đã đến được tay người cần nó.
Mấy chục năm ông Sính đã làm thay công việc mà lẽ ra các cơ quan chức năng phải làm - đó là điều trăn trở nhất nơi ông. Ông Sính nói rằng, nhiều nghĩa trang hiện nay, người ta dùng thuốc để diệt cỏ, thậm chí họ đốt cỏ cho nhanh. Nhìn thấy nghĩa trang nham nhở cháy đen, lòng ông lại nhói buốt. Nhưng nhói buốt thường trực nơi ông vẫn là phần mộ người anh Đào Chí Nguyện. Rồi ông lại lên đường với chiếc ba lô con cóc trong sự động viên của người vợ thảo hiền và cả 4 người con thành đạt.
Hôm tiễn ông lên đường ở Nha Trang, tôi nghe lòng mình buốt nhói lúc bóng ông mờ khuất nơi sân ga và tôi chỉ biết cầu mong: “Chúc anh lần này sẽ gặp ngôi mộ mang tên Đào Chí Nguyện”.
Trà Ban
Theo laodong.com.vn