
Tổng thống Nixon (đứng) và cố vấn an ninh Kissinger (bên phải) trong ngày 14-12-1972. Ảnh: Lưu trữ Nhà nước Hoa Kỳ.
Nixon quyết định ném bom dịp Lễ Giáng sinh bất chấp phản ứng của một số nhân vật chủ chốt khác. Lý do là Nixon sợ rằng, khi nhóm họp trở lại vào tháng 1 năm 1973, Quốc hội mới của Mỹ sẽ ra các đạo luật đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam (to legislate the United State out of the war)(*), không đoái hoài đến các lợi ích gây chiến của chính quyền Nixon và chế độ Thiệu.
Dưới đây là một ghi chép từng ngày các sự kiện ở Nhà Trắng thời kỳ Linebacker II dựa trên nhật ký, hồi ký... của các nhân vật chóp bu trong chính quyền Mỹ.
13-12-1972
Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird gửi một công hàm cho Nixon phản đối sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết bế tắc trên bàn đàm phán. Laird cho hay, ông ta được Đại sứ Rush và Moorer (Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân) ủng hộ. Điều này hẳn đã dẫn đến sự thiếu tin tưởng của Nixon đối với chóp bu quân sự Mỹ trong tiến trình Linebacker II.
14-12
Hồi ký Nixon , NXB Grosset and Dunlap, năm 1978, trang 734: “Ngày 14-12, tôi phát lệnh, có hiệu lực trong ba ngày, về rải mìn trở lại cảng Hải Phòng, tái phát động các chuyến bay do thám bằng đường không, và chuẩn bị các phi vụ B-52 không kích khu vực Hà Nội - Hải Phòng”.
Theo Hồi ký Kissinger “Những năm ở Nhà Trắng, NXB Little, Brown and Company, năm 1979, trang 1448, Nixon, Kissinger và Haig (phó cho Kissinger) họp trong phòng Bầu dục. Kissinger chủ trương dùng máy bay tiêm kích đánh bom các vùng đông dân cư, nhưng Haig chủ trương dùng B-52 trong một “cú sốc ồ ạt”, và được Nixon đồng thuận.
16-12
Theo hai chỉ thị chi tiết của Nixon, Kissinger họp báo, cáo buộc phía Việt Nam làm đình đốn đàm phán để mở đường cho cuộc tập kích bằng B-52 đánh vào Hà Nội - Hải Phòng và nhiều vùng dân cư ở miền Bắc (Hồi ký Kissinger trang 1450).
17-12
Nixon viết trong Hồi ký (trang 735): “Vào sáng sớm ngày Chủ nhật, 17-12, máy bay Mỹ tiếp tục rải mìn tại cảng Hải Phòng. Trong vòng 24 giờ tới, 129 chiếc B-52 tham gia không kích miền Bắc Việt Nam”.
18-12
Nhật ký Nixon: “Quyết định chơi rắn (tough) đã được đưa ra, và đang được thực hiện... Tôi vừa nghe tin 1 chiếc B-52 bị bắn rơi. Henry (Kissinger) nói Lầu Năm Góc đang chờ tin có tới 3 chiếc bị bắn rụng. Dĩ nhiên, sẽ còn phải tiến hành hai, hoặc ba đợt đánh phá nữa, nhưng Lầu Năm Góc đang trông đợi trong đợt thứ hai, hoặc thứ ba, toàn bộ sức mạnh đề kháng của SAM sẽ bị đánh gục, hoặc chí ít bị chế áp. Ít nhất, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện là mọi sự sẽ an bài như thế, và hy vọng rằng mọi thứ sẽ xảy ra như thế”.
Trong hồi ký, Nixon chú thích ở dưới đoạn trích nhật ký trên (trang 735), “trong ngày hôm đó, thêm 2 chiếc B-52 nữa bị bắn rơi”.
Nghiền ngẫm về tổn thất, Nixon viết tiếp trong Nhật ký: “... Trong mọi trường hợp, đã ra quyết định rồi thì không thể quay ngược lại. Kissinger thì tinh thần lúc lên, lúc xuống, điều này dễ hiểu thôi. Chẳng hạn sáng nay, tinh thần của ông ta xuống hơn là lên. Tôi vừa gọi điện cho Moorer (Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân Mỹ-ND) để chắc chắn rằng đã củng cố được tư tưởng cho ông ta là nhất thiết phải theo đuổi đòn không kích đến cùng. Tôi e chúng tôi đã gây sức ép quá mạnh lên Mua-rơ, nhưng tôi ngờ rằng vì Không quân và Hải quân Mỹ đã quá thận trọng nhiều lần trong quá khứ nên các mục tiêu chính trị của chúng ta đã không đạt được. Chúng ta phải biết chịu tổn thất nếu muốn hoàn thành các mục tiêu”.
19-12
Hồi ký Nixon (trang 734): “Tôi nghĩ mình đã gây sốc cho Đô đốc (Moorer) khi tôi chỉ thị cho ông ta: “... Đây (cuộc tập kích chiến lược đường không) là dịp để các ngài sử dụng sức mạnh quân sự một cách hiệu quả để đánh thắng cuộc chiến tranh này. Còn nếu không, tôi coi như các ngài phải chịu trách nhiệm”.
Thời báo New York (NY) đưa tin, khi Melvin Laird thông báo với báo giới về việc bàn giao chức trách Bộ trưởng Quốc phòng cho Elliot Richardson, phóng viên NY hỏi ông ta về vụ việc ném bom ồ ạt Hà Nội, Hải Phòng... “sau khi tìm cách tránh câu hỏi”, NY viết, Laird cho hay: “Lúc này, chiến dịch không kích toàn miền Bắc đang diễn ra”. Laird từ chối không bình luận thêm vụ việc này, nói là tránh gây nguy hại cho tính mạng những người lái Mỹ.
20-12
Nixon viết trong Hồi ký (trang 737): “20-12 là ngày thứ ba của cuộc không kích Bắc Việt Nam. 90 chiếc B-52 tham gia ba đợt đánh phá 11 mục tiêu, sáu chiếc B-52 bị bắn rơi”.
Chánh văn phòng Nhà Trắng Haldeman viết trong Nhật ký: “P (Tổng thống Nixon) lại quay lại với thiệt hại về B-52, và tỏ ra thực sự phiền muộn, cứ hỏi xem liệu còn cách gì xoay xở. K (Kissinger) đáp, chả còn cách gì. Rằng đây là cuộc không kích quy mô lớn cuối cùng. K lại tiếp tục rủa bọn Thiệu là “chó đẻ” (SOB), là lũ tâm thần bệnh hoạn (maniac). Cả hai đều nhất trí rằng, chúng ta không được để lộ là Haig (được Nixon cử sang Sài Gòn cùng kỳ để “thuyết khách” Thiệu) đã bị Thiệu cự tuyệt. Chúng ta cần tiếp tục ném bom miền Bắc, nhưng ở quy mô kém ồ ạt hơn. Chúng ta cần giảm bớt đòn không kích vào Hà Nội, để tránh những tổn thất quá lớn”.
21-12
Nixon viết trong Hồi ký (trang 737): “21-12 có 30 lượt B-52 xuất kích đánh ba mục tiêu mới, hai chiếc B-52 bị bắn rơi”.
22-12
Hồi ký Nixon, trang 737: “Trong tuần đầu của chiến dịch Linebacker II, mối lo âu của tôi không phải là những phê phán quyết liệt trong và ngoài nước Mỹ, mà là tổn thất vô cùng nặng nề của B-52”.
23-12
Nixon viết Nhật ký: “Tôi đã phát khùng về chuyện các phi đội B-52 cứ bay mãi trên những mục tiêu ấy vào đúng những giờ ấy. Chính vì thế, tôi không ngạc nhiên, cho dù thất vọng một cách sâu sắc, khi chúng ta mất 5 chiếc B-52 vào ngày thứ hai, hoặc thứ ba ...”.
24-12
Báo Bưu điện Washington đăng tải tin về vụ ném bom rải thảm Bệnh viện Bạch Mai.
Nixon đã không thể tiếp tục xem thường “những phê phán quyết liệt” của công luận Mỹ và thế giới. Theo Hồi ký Nixon (trang 738), bài xã luận trên Bưu điện Washington cho rằng, Linebacker II đã làm “hàng triệu người Mỹ phải rúm người lại vì xấu hổ, và vì phải nghi ngờ sự sáng suốt của tổng thống Mỹ”; biên tập viên chính của Thời báo New York là A. Lewis cho rằng “tôi (Nixon), hành động như một tên bạo chúa điên” - Nixon viết trong hồi ký.
25-12
Hồi ký của Kissinger cũng dành tới gần 5 trang (từ 1451 đến 1456) để mô tả phản ứng trong nước và quốc tế, trên truyền thông và cả trên chính trường về vụ ném bom dịp Lễ Giáng sinh.
Thay cho những lời chúc nhân dịp Giáng sinh, Kissinger nhận được những bức thư cay đắng đến kinh ngạc của những người bạn cũ, và của “những công dân thịnh nộ”, “những lời buộc tội vô đạo đức, lừa đảo”, “dã man”, là những gì Kissinger phải nghe nhiều vô kể trong dịp này (Hồi ký Kissinger, trang 1453).
Nhưng Nixon vẫn trơ trẽn tiếp tục bài “đạo đức giả”, ông ta viết: “chúng ta được hưởng hòa bình trong một ngày” (Hồi ký Nixon, trang 740).
26-12
Dù một số thành viên của Nhà Trắng đề nghị kéo dài ngừng bắn nhân dịp Giáng sinh, nhưng Nixon dấn tới, ra lệnh tiến hành cuộc không kích lớn nhất từ trước đến nay: 116 lượt chiếc B-52 bắn phá vùng Hà Nội, Hải Phòng (Hồi ký Nixon, trang 741).
Nhà Trắng và Lầu Năm Góc hay tin Đại úy Michael Heck, 30 tuổi, lái trưởng của một kíp bay B-52 đã chống lại lệnh điều đi ném bom miền Bắc Việt Nam. Trước đó, ngày 18-12-1972, Đại úy Dwight Evans, 26 tuổi, lái F4, thuộc phi đội chiến thuật số 34 đóng tại Thái Lan, cũng bị đưa ra tòa án binh do chống lệnh trên, không tham gia chiến dịch ném bom ồ ạt Hà Nội, Hải Phòng. Một số phi công khác bị buộc giải ngũ vì phản chiến. 9 chuyến bay B-52 bị đình chỉ đêm 26 rạng ngày 27-12, theo báo cáo là do “trục trặc kỹ thuật”...
28-12
Sau khi Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn thông báo danh sách các mục tiêu tại miền Bắc bị Mỹ không kích, người phát ngôn Lầu Năm Góc Jerry Friedheim vẫn tiếp tục tỏ ra vụng về, khi trả lời báo chí về các thiệt hại dân sự mà cuộc ném bom gây ra, rằng Lầu Năm Góc không thể loại trừ những “hủy hoại mà dân thường phải gánh chịu”. (Báo Bưu điện Washington, 28-12).
29-12
7 giờ sáng giờ Washington, phía Mỹ thông báo đình chỉ ném bom miền Bắc kể từ Bắc vĩ tuyến 20 (Hồi ký Nixon, trang 741).
30-12
Phía Mỹ tuyên bố hội đàm Paris sẽ được nhóm họp trở lại, và Kissinger sẽ lên đường sang Pa-ri gặp Lê Đức Thọ vào ngày 8-1-1973 (Hồi ký Nixon, trang 741).
---------
(*) Gió ngang: Triển khai lực lượng không quân Mỹ ở Việt Nam (Crosswind: The Air Force’s setup in Vietnam, của E. Tilford NXB Texas A & M University Press, 1993, tr. 161).
LÊ ĐỖ HUY (Tổng hợp)
Theo qdnd.vn


