“Liệt sĩ” Nam đang xem hồ sơ liệt sĩ trước khi lên đường tìm đồng đội Ảnh: Thanh Nhuận.
Chuyện sau quán trà của “ông liệt sỹ”...
Chủ quán trà “Đệ nhất Hà Đông” ấy tên là Phạm Văn Nam, sinh năm 1953.
Phạm Văn Nam là con trai cả của một thương binh miền Nam tập kết. Năm 1973, giữa lúc chiến trường miền Nam ác liệt nhất, anh rời Công ty Xây lắp Điện lực Hà Tây (trước đây) lên đường ra trận.
18 năm trong quân ngũ, làm lính trinh sát, Phạm Văn Nam có mặt ở nhiều chiến trường, từ Đường 9, Rừng Sác đến mặt trận Lào, Campuchia. Năm 1978, ở mặt trận đường 56, đánh quân Pôn Pôt, anh bị trúng hai viên đạn toác đỉnh đầu, xé đầu gối trái, Phạm Văn Nam như đã ngừng thở. Đồng đội gói anh vào túi ni lông, kèm theo một vỏ đạn ghi tên tuổi, quê quán, đưa về tuyến sau…
Ai dè, sau một đêm “gối đất, nằm sương”, Phạm Văn Nam tỉnh lại. Một đồng đội giúp anh thoát khỏi chiếc túi ni lông đã bị buộc chặt, băng bó vết thương cho anh. Không ngờ, người đồng đội ấy hy sinh ngay sau đó, còn Nam nhập vào một đơn vị khác.
Lúc thu dọn chiến trường, anh em ngậm ngùi chẳng hiểu xác Nam lạc đâu, chỉ thấy chiếc túi ni lông dính đầy máu và mảnh giấy ghi rõ tên tuổi, quê quán… bên trong một chiếc vỏ đạn đã đập bẹp đầu... Năm 1979, bà con khối 6, cán bộ, nhân dân phường Quang Trung, thị xã Hà Đông (lúc bấy giờ) đã tổ chức Lễ Truy điệu cho liệt sĩ Phạm Văn Nam trong niềm tiếc thương vô hạn.
Thật bất ngờ, năm 1990, ông được Trại an dưỡng Thuận Thành (Hà Bắc trước đây) đưa về nhà giữa lúc nửa đêm. Người mẹ già khóc lặng, chắp tay vái: “Con sống khôn chết thiêng...”! Ông chỉ kịp bảo: “Mẹ ơi, con còn sống...”.
Hỏi ông suốt 13 năm liền sao không tin tức để gia đình “liệt sĩ” Phạm Văn Nam cho hay: “Suốt 13 năm tôi bị liệt nửa người; vết thương trên đầu hành hạ, nên nghĩ bụng: Thà cứ để gia đình coi mình là liệt sĩ, còn hơn trông thấy mình như thế nên sống âm thầm lặng lẽ”. Tuy nhiên khi nghĩ về người mẹ già đã gần đất xa trời ông quyết định về với mẹ, với quê hương.
Suốt hai năm trời chứng kiến, những người hàng xóm khi thấy lúc thì “bà mẹ liệt sĩ”, lúc thì “ông bố liệt sĩ” vốn cũng là thương binh từ thời chống Pháp còng lưng dìu “con liệt sĩ” tập đi trong phố nhỏ Bế Văn Đàn. Sau hai năm Phạm Văn Nam biết tự đi trên đôi nạng gỗ...
Năm 1993, trên đôi nạng gỗ, ông tìm tới Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tây (cũ) gửi lại Giấy Báo tử, Bằng Tổ quốc ghi công, và xin xác nhận là mình còn sống!
Đến giờ, Phạm Văn Nam vẫn chưa được hưởng chế độ gì, vì liệt sĩ chẳng phải, thương binh cũng không.
Đến thăm nhà, ngoài tài sản quý giá nhất là cái ti vi do bạn chiến đấu tặng, ông chỉ cho tôi xem hai thứ mà ông cho rằng quý giá hơn cả: đó là một tủ hồ sơ liệt sĩ, và một bọc thuốc to bằng cái giỏ ấm. Ông bảo: Một ngày không có thuốc là chết! Và thật bùi ngùi: Cả đống thuốc ấy đều được chắt từ những chén nước chè sóng sánh từ quán “Đệ nhất Hà Đông” kia…
Đi tìm đồng đội
Năm 1973, Phạm Văn Nam lên đường vào mặt trận . Trong khu phố lần ấy, lên đường với Nam có đến vài chục người. Tất cả đều được “phiên” vào Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4. Lần nào trước khi ra trận, mấy anh em cũng tâm sự, dặn dò nhau: “Sau, nếu ai còn sống, thì phải đi tìm người đã mất, để giao cho mẹ...”. Suốt bao năm đau đáu lời nguyền với đồng đội; song phần do liệt nửa người, phần do đời sống quá khó khăn, Phạm Văn Nam cũng chỉ biết khắc khoải với lời nguyền ấy.
Năm 1993, Phạm Văn Nam đi dự đám tang một người đồng đội dưới Quảng Ninh. Tình cờ, Nam gặp hai mẹ con đang khóc ngất vì vừa đi tìm mộ chồng, mộ cha trong Bình Phước mà không thấy. Gạn hỏi, hóa ra người liệt sĩ mà hai mẹ con đang tìm chính là đồng đội của ông, tên là Nguyễn Đình Hòa, hy sinh năm 1975 tại mặt trận Bình Phước do chính tay ông chôn cất. Vài ngày sau, “Liệt sĩ Nam” cùng vợ con người đồng đội ấy trở lại Bình Phước, nhanh chóng tìm chính xác mộ liệt sĩ Nguyễn Đình Hòa.
Ông Nam kể lại: Là lính trinh sát, chẳng mấy ai vào trận mà lại mang theo giấy bút; đặc biệt là chẳng đào đâu ra lọ Penixilin, nên mới có sáng kiến: Nếu có giấy bút thì ghi tên tuổi, quê quán lên mảnh giấy, rồi bỏ vào vỏ đạn, cắn bẹp đầu rồi để vào miệng liệt sĩ. Nhờ thế việc tìm mộ sau này khá hiệu quả.
Cũng từ cái lần đi tìm mộ liệt sĩ hết sức tình cờ ấy, “nghiệp” tìm mộ gần như thấm vào máu “liệt sĩ Nam”. Lúc tỉnh táo, không hiểu sao, những hình ảnh cũ ngoài mặt trận cứ hiện về. Ông lại nhớ ra tên tuổi, quê quán, phần mộ của một người đồng đội nào đấy.
Ông ngồi vẽ chi tiết phần mộ, tên tuổi, quê quán từng người. Ngồi sau quán nước từ Hà Đông, ông có thể vẽ lại từng lối mòn, hốc đá; ghi lại từng đặc điểm dưới mộ của liệt sĩ ở tận phương Nam... Trong một trang vở, ông viết: “Nguyễn Danh Tuấn-1947; gói bằng tấm tôn, 2 đầu đóng 2 cọc sắt 3 cạnh”...
Sau này, gia đình liệt sĩ Nguyễn Danh Tuấn vào bốc mộ anh, thấy địa điểm, đặc điểm y như vậy. “Liệt sĩ Nam” nhiều lần lên đường tìm mộ đồng đội. Những năm qua, ông trở lại chiến trường hàng trăm chuyến, năm nhiều tới 16 chuyến, năm ít nhất cũng 5-7 chuyến; mỗi lần đi cũng mất dăm bữa, nửa tháng; có lần dài nhất tới 45 ngày.
Cứ dạo nào thấy vắng “liệt sĩ Nam” đằng sau quán trà, dân phố Quang Trung, rồi dân ngõ Bế Văn Đàn lại bảo nhau: “ông liệt sĩ lại đi miền Nam rồi”, để đến lúc gặp lại bên quán nước trà, họ lại hỏi ông: “Kỳ này gặp bao nhiêu đồng đội?”.
Năm 2007, ông đến Kon Tum, đưa về 16 bộ hài cốt liệt sĩ của riêng xã Biên Giang (Hà Đông, Hà Nội).18 năm nay, Phạm Văn Nam đã trực tiếp bốc, rửa..., rồi mang về cho thân nhân đồng đội 242 phần mộ liệt sĩ. Ông còn chỉ đường, chỉ đặc điểm cho thân nhân tìm mộ.
Khi hỏi về nguồn kinh phí cho những chuyến đi, ông Nam chỉ tay vào cái ấm nước trà, rồi lại chỉ tay về phía vợ: “Tất cả ở đấy”! Từ năm 1990, người vợ thấy ông đau ốm quanh năm, đành xin nghỉ “một cục”, ở nhà chăm sóc chồng và phụ đỡ quán nước. Chẳng dám ăn, chẳng dám tiêu, tần tảo chắt chiu từ cái quán nước, được đồng nào lại dồn hết cho chồng đi tìm đồng đội...
Thanh Nhuận
Theo tienphong.vn