Việt Nam  | 
English
   Trang chủ    Tin tức    Tin trong nước
Tin trong nước
Thư gửi người đã khuất!
Bionet Việt Nam - Ngày các anh đi, bố mẹ còn khoẻ chân, mạnh tay, em thơ còn khờ dại. Nay, mẹ già đã mắt mờ, chân chậm, em thơ đã trở thành những người cha, người ông. Ấy thế nhưng kỷ niệm về anh - những người lính trẻ năm xưa còn mãi trong lòng những người thân, những người đang còn sống, được hưởng hạnh phúc tự do mà 1 phần công sức, xương máu và sự sống của các anh đã hun đắp lên.

Website xin đăng tải toàn bộ lá thư của anh Trần Thế Lợi - gửi cho anh trai là liệt sĩ Trần Thế Ngọ  đã hy sinh tại thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm khói lửa. Như một nén nhanh thơm, cháy mãi trong chúng tôi và những người đang còn sống thành kính thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với liệt sĩ Ngọ và những liệt sĩ đã hy sinh tại thành cổ nói riêng và các liệt sĩ Việt Nam nói chung.

Anh kính yêu!

Tháng trước Em vừa đi Quảng Trị về, và đêm nay em ngồi viết những dòng này để gửi cho Anh, cho dĩ vãng, cho kí ức, hay cho hiện tại của em, cho tương lai của các con em (là các cháu Anh đấy)viết cho cái gì Em cũng không biết nữa, chỉ biết rằng đã bao nhiêu năm rồi Bố Mẹ và chúng em cứ day dứt khôn nguôi khi chưa tìm được Anh dù cuộc chiến đã lùi xa ba mươi năm rồi. Anh ạ, từ xưa đến nay mỗi khi nhắc về chiến tranh người ta thường hay dùng những từ : Hào hùng, Oanh liệt, Khốc liệt, Vĩ đại…Nhưng có lẽ với em và cũng như nhiều người khác nữa nhất là những người đã đi qua cuộc chiến, hay đã mất đi những người thân yêu nhất của mình bởi một cuộc chiến tàn khốc thì chiến tranh là khúc bi tráng nhất bởi vì nó đã gắn liền với số phận của bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Ba mươi năm đã qua đi từ khi chiến tranh chấm dứt trên mảnh đất này, mọi vết thương đã thành vết sẹo mờ, dấu tích chiến tranh trên mặt đất gần như đã bị mưa gió thiên nhiên và bàn tay con người xoá sạch, chỉ còn kí ức khốc liệt về cuộc chiến đôi khi vẫn hiện về trong tâm trí những người lính, trong những cơn mơ ú ớ, quằn quại vã mồ hôi khi vết thương xưa nửa đêm trở trời lại hành hạ người thương binh…Nhưng còn những nỗi đau đớn khôn cùng mà cuộc chiến đã để lại, nó âm thầm lặng lẽ trong lòng những người cha, người mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những bậc sinh thành nhìn những đứa con tật nguyền bởi di chứng của chất da cam…

Anh ơi, Bố Mẹ mình năm nay đã ngoài tám mươi, đôi mắt đã mờ đục, lưng đã còng xuống theo gánh nặng thời gian, tai đã nặng lắm rồi vậy mà hơn ba mươi ba năm nay có bao nhiêu buổi chiều trong không gian tĩnh lặng, trong thơ thẩn của căn nhà trống vắng vẫn cứ ngước hoài nhìn mãi vào tấm ảnh anh rồi lại nhìn sang tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công treo bên cạnh, giây lát lại đưa tay chấm mắt và sau đó nhìn ra khoảng trời vô định với đôi mắt vô hồn. Hình như lúc đó một tiếng động rất nhỏ giữa thinh không cũng làm Bố Mẹ giật mình tưởng như bước chân con mình trở về.

Mùa hè năm 1972 một mùa hè máu lửa, 81 ngày đêm trên thành cổ Quảng Trị. Trong cái mùa hè ấy Anh đã đến nơi đó và mãi mãi nằm xuống trong mịt mù bom đạn.Cái khốc liệt của mảnh đất Quảng Trị khi đó, em chỉ biết qua sách báo và lời đồng đội Anh kể lại, và quả thật em không biết nói gì hơn nữa khi đọc những dòng ghi chép sau của Hoàng Nguyên Vũ :“Sông Thạch Hãn ôm lấy thị xã Quảng Trị, thị xã nhỏ bé chưa đầy 2km2, trong 81 ngày đêm Mỹ ngụy đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945. Riêng ngày25/7/1972 chúng xả vào Thành cổ hơn 5000quả đại bác. Một mùa hè đỏ lửa đã biến Thành Cổ Quảng Trị thành một đài tưởng niệm bất tử và vĩnh hằng về khát vọng hoà bình, độc lập thống nhất, bằng tim và ý chí của những người lính trẻ. Có người ví Thành Cổ Quảng Trị là Cov-entry của nước Anh, là Bologne của Italia, đã viết nên những dòng sử bằng máu của một thời trai trẻ suốt 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa1972.Phải nói rằng, trên mảnh đất hinh chữ S này, chưa một nơi nào đất được giữ bằng một giá đăt như nơi đây, và chưa một dòng sông nào nước lại chứa nhiều máu như dòng Thạch Hãn…” ( Có tuổi hai mươi thành sóng nước. HNV)

Anh biết không trong giàn hoa Phong lan treo trước cửa nhà em, giữa muôn loài hoa Lan nhập ngoại với đủ mọi sắc mầu hoa rực rỡ có bình dị một giò phong lan Kiếm, với những nhánh lá hình lưỡi kiếm vút thẳng lên trời, mãnh liệt và bất khuất. Giống hoa này thật dễ trồng, chẳng cần chăm bón tưới tắm mà nó vẫn xanh tốt.Chắc Anh không biết rằng kỉ vật cuối cùng của anh còn lại trên cuộc đời này là di ảnh trên ban thờ với đôi mắt lúc nào cũng như cười, mấy lá thư viết từ Dốc Miếu, Đông Hà, Thạch Hãn và giò lan Kiếm này đây.

Sáng ngày 04/7/2005 em vừa tới sông Thạch Hãn, qua điện thoại di động em nhắn tin về để ở nhà mọi người thắp hương cho Anh, báo với Anh rằng thằng em bé bỏng của Anh ngày nào đã đến nơi Anh nằm xuống. Em vô cùng bất ngờ khi ở nhà báo tin rằng những giò lan của Anh vừa trổ rất nhiều hoa. Anh biết không những cành hoa ấy chảy dài xuôi xuống phía dưới, ngược với chiều vươn lên mãnh liệt và bất khuất của lá, với những bông hoa có mầu như nước mắt trắng hồng pha mầu nâu nhạt của vết máu khô chảy xuôi thành dòng trở về với đất. Nó như khúc bi ai của thân phận con người, ngược với những gì hào hùng của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.

Bây giờ ở nơi nào đó sâu trong lòng đất lạnh, hay tít trên trời cao giữa các giải Ngân Hà, linh hồn Anh có còn ngược về kí ức, để nhớ lại những ngày tháng ấy không?

Tháng 1/1972 Anh lên đường nhập ngũ, một ngày cuối xuân 72 gia đình lên Dốc Bụt- Hoà Bình thăm Anh, trước ngàyAnh đi B. Được nghỉ 1ngày với gia đình anh vào rừng tìm giò lan mang về làm quà, kỉ vật đơn sơ ấy cũng là kỉ vật cuối cùng để rồi mãi mãi với chúng em, anh chỉ hiện hữu hàng ngày qua bức ảnh với nụ cười hiền trong khói nhang trầm u uất, trong giò lan xanh mướt mà mỗi khi trổ hoa đều đem lại niềm vui cho mọi người trong gia đình. Nhiều năm đã trôi qua các em Anh đã trưởng thành mỗi khi xây dựng gia đình và chuyển nhà ra ở riêng Mẹ lại tách giò lan ra vài nhánh cho bọn em mang theo trồng nơi nhà mới, và cũng thật lạ lùng giò lan không phải năm nào cũng ra hoa, nhưng mỗi khi nó ra hoa thì bao giờ gia đình mình cũng có sự kiện vui Anh ạ. Mẹ vẫn dặn chăm sóc hoa cẩn thận Anh con sẽ phù hộ, còn chúng em vẫn coi như có anh hiện hữu đâu đó quanh mình.

Tháng 7/72 Anh lên tầu vào Nam, mấy bức thư viết vội trong lúc nghỉ chân Anh đã dặn dò chúng em rất nhiều điều, về chuyện chăm chỉ học hành và giúp đỡ bố mẹ. Anh bảo có thể Anh không trở về nữa nhưng không bao giờ để các em phải xấu hổ vì có một thằng anh B quay (cóc quay) nếu Anh có không về thì các em hãy tự hào rằng đã có một người anh là Liệt sỹ hy sinh vì đất nước,vì dân tộc.

Anh ơi! Trong khi đi vào cuộc chiến có người lính nào lại muốn mình chết đâu phải không Anh? Nhưng chắc rằng đại đa số ai cũng hiểu rằng ở đời Chết Vinh còn hơn Sống Nhục, thế mà thật buồn khi bây giờ giữa cuộc đời này em vẫn thấy những kẻ khoác áo thành đạt, ngồi xe hơi xịn vênh mặt với đời, nói điều cao đạo mà chính những kẻ đó trước đây đã từng trốn tránh NVQS hay là những kẻ đào ngũ, mà vào những năm đầu 70 không dám ra đường ban ngày và đi đâu cũng cúi gằm mặt.

Sự mất mát người thân nào cũng đau lòng, nhưng chắc rằng Bố Mẹ cũng ngẩng cao đầu tự hào mà sống đến ngày nay chính là do sự hy sinh của Anh. Nhưng điều đau lòng nhất là cho đến hôm nay Bố Mẹ và chúng em vẫn không biết Anh nằm nơi đâu trong lòng đất lạnh?

Anh! Trong chuyến đi vừa rồi em không có tham vọng tìm được chỗ Anh nằm, bởi vì trong giấy báo tử Anh người ta chỉ ghi nơi hy sinh và mai táng là Mặt trận phía Nam Quân khu 4. Năm 1991 gia đình đã đăng tin tìm mộ Anh trong chuyên mục Nhắn tìm Đồng đội, ngay sau ngày đó đồng đội Anh đã tìm đến nhà rất đông, và trong rưng rưng nước mắt các anh ấy đã nói rằng không thể tìm được mộ Anh đâu, bởi bom pháo đã làm cho Anh không còn nguyên vẹn hình hài, sau khi nhặt nhạnh từng phần thi hài các anh ấy đã bọc gói Anh và nhiều đồng đội khác cho vào Tăng và mai táng, cứ hàng ngày bom cày đạn xới thì sau vài hôm không ai nhận ra nơi ấy là chỗ nào.

Anh biết không điều đau lòng hơn cả là Mẹ cứ đi khắp nơi hỏi han thông tin để mong tìm được phần mộ của Anh, Mẹ vẫn gầy và nhỏ bé như xưa, chỉ ba mấy kg với áo nâu sồng. cái nón thẫm mầu thời gian cứ đội nắng mưa đi mãi với hi vọng rất mơ hồ như thế. Mẹ nghe tin có nhà ngoại cảm có thể nhìn ảnh mà nói được mộ ở đâu, thế là mẹ tìm đến, nhưng cũng thật buồn sau khi nhận ảnh Anh vài ngày chị ấy đưa lại ít dòng viết trên trang giấy như lời Anh, đại ý Bố Mẹ đừng mất công tìm con làm gì, thân xác con đã hoà trong đất và nằm lại Thành Cổ cùng rất nhiều đồng đội, con không cô độc đâu…

Anh ! Trên chuyến xe chạy vào Quảng Trị khi bắt đầu đến Dốc Miếu em đã thấy run hết cả người, nước mắt ứa lên bờ mi nhưng nó không thể trào ra mà cứ âm thầm chảy ngược vào trong lòng em mặn đắng. Đường I bây giờ mở ra to và rộng, trên vách phải quả đồi là dòng chữ : Di tích lịch sử Dốc Miếu, còn đỉnh đồi bên trái là tượng đài các chiến sỹ đang hướng về Phương Nam, các đoàn xe khách vùn vụt lao qua và trong số những người trên xe có mấy ai để ý rằng từ đây vào Đông Hà, Thạch Hãn bánh xe của họ đang lăn trên lớp lớp máu xương những người lính Miền Bắc…

Cũng rất tình cờ khi sau chuyến đi về Hà Nội mươi ngày em đã đọc bài báo: Có tuổi hai mươi thành sóng nước của tác giả HNV một cái gì đó rất lạ dâng lên trong em, trên chuyến xe em đi bọn em cũng đã nói về màu hoa Phượng đỏ đến kì lạ của miền đất này, khi ây em chỉ dám nói về điều kiện địa chất và khí hậu, tuyệt nhiên không dám nói ra điều em nghĩ trong lòng : Phải chăng máu của Anh và đồng đội đã làm nên cái mầu đỏ ấy? Cũng như sự trong vắt của nước sông Thạch Hãn phải chăng là do nó được hoà với máu của những người lính tuổi đôi mươi trong trắng, những người đã ngã xuống là tinh hoa của một thế hệ dám xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc?

Thị xã Quảng Trị giờ đây dấu vết chiến tranh đã phai mờ đi rất nhiều, bên cạnh cây cầu sắt cũ năm nào bây giờ là một cây cầu bê tông mới, đồng đội Anh nói rằng nơi Anh hy sinh cách chân cây cầu sắt khoảng hơn 1000m xuôi về phía hạ lưu và 200m từ mép sông trở lên ( có lẽ đằng sau lưng khu vực nhà thờ và trường Bồ Đề ), thôi không biết nơi nào Anh đã nằm xuống thì những bông hoa thả trôi trên dòng Thạch Hãn cũng coi như đã được đặt trên phần mộ các anh.

Anh ! Xin anh hãy cùng đồng đội vui lòng yên nghỉ, có thể người này người khác, lúc này lúc khác đã lãng quên các anh bởi cuộc sống đang cuồn cuộn chảy với tốc độ chóng mặt, không phải ai cũng nhớ về các anh, nhớ đến những năm tháng hào hùng của cuộc chiến tranh như một khúc ca bi tráng. Xin các anh hãy ngủ yên với Cỏ non thành cổ, mặc cho ai nỡ vô tình.

Anh kính yêu! Như trên em đã nói về sự tình cờ khi vừa ở QT ra em đọc bài báo ấy, em xin chép lại ở đây đoạn thơ của một người lính là đồng đội của Anh cũng từng chiến đấu tại Cổ Thành Quảng Trị, viết về các anh với một lời ngợi ca bất tận, với lời cầu xin cho các anh được yên bình với giấc ngủ ngàn năm:

Đò xuôi Thạch Hãn xin… chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.

Anh ạ! Nếu được gặp anh Lê Bá Dương tác giả bài thơ, em sẽ xin phép cho riêng em khi đọc bài thơ này được đổi hai chữ : “ hai mươi’’ thành “ đôi mươi” như thế sẽ hợp với Anh hơn phải không? Vì Anh mới vừa 18 tuổi mà, cũng như bao nhiêu đồng đội của Anh đã ngã xuống khi mới 18 tuổi, và từ xưa đến nay cha ông ta vẫn nói : Mười Tám Đôi Mươi phải không Anh?

Anh ạ! Những ngày đầu tháng 7 này các phương tiện thông tin đại chúng thường nói nhiều về chuyến đi thăm Mỹ của thủ tướng Phan Văn Khải với phương châm : Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Điều đó âu cũng đúng phải không Anh? Con người ta không thể sống mãi với quá khứ, cũng như ôm mãi mối hận thù. Cuộc sống và lịch sử đã sang một trang mới. Có thể các thế hệ sau này sẽ phán xét cuộc chiến ấy dưới các cách nhìn khác nhau, nhưng hiện tại tất cả đã khép lại. Chỉ có điều những day dứt trong lòng Bố Mẹ và chúng em về phần mộ và xương cốt của Anh chưa biết đến khi nào mới khép lại?

Trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn nơi Tình Yêu Thương và Sự Thù Hận ngự trị có lẽ sẽ còn mãi một nỗi đau./.

Hà Nội ngày 12 tháng 7 năm 2005

Em của Anh

Trên đây là lá thư của anh Trần Thế Lợi – em trai của liệt sĩ Trần Thế Ngọ; nguyên Quán : Khối 68 Tiểu khu Nam Đồng- Đống Đa - Hà Nội; thuộc đơn vị : C11 D6 E 95 F 325; hy sinh ngày 28 / 8 / 1972 tại Thành Cổ Quảng Trị.

Ai biết thông tin về liệt sĩ xin liên hệ với gia đình:

Trần Thế Lợi : 0913580030

Theo nhantimdongdoi.org

Các tin khác