Bà Thiêm xịt thuốc chữa bệnh. Ảnh do PV điều tra chụp.
Sau khi đăng toàn văn ý kiến của bà Hoàng Thị Thiêm, BBT Báo điện tử VTC News nhận thấy không cần thiết phải đăng lời tranh cãi với bà Hoàng Thị Thiêm nữa. Để khách quan, BBT đăng bài viết của bà Ngô Thị Thúy Hằng, Giám đốc Trung tâm Marin (Trung tâm quản lý dữ liệu về liệt sĩ và người có công), cũng là người tổ chức cuộc tìm mộ ở Trường Sơn năm đó. Sau đây là bài viết của bà Hằng.
Tôi có một may mắn là sinh ra sau chiến tranh, không phải chịu cảnh bom rơi đạn lạc. Những gì tôi viết ra đây là những gì tôi chứng kiến và cảm nhận sau 02 lần tới Khe Sanh (Quảng Trị) - một địa danh đã đi vào lịch sử. Tôi đã qua nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Hướng Hóa, Triệu Phong, đã đứng trong thành cổ Quảng Trị, đã lùa tay xuống nước sông Thạch Hãn. Vùng đất Quảng Trị đau thương mà anh dũng ấy đã quá đỗi thân thuộc với tôi.
Chị Ngô Thị Thúy Hằng, Giám đốc Marin, người tổ chức cuộc tìm mộ ở Trường Sơn, cũng là tác giả của bài viết này.
Những gì tôi viết ra đây cũng chỉ mong mọi người đừng “quáng quàng” lên mà nghe nhà ngoại cảm A hay nhà ngoại cảm B rồi lấy hài cốt liệt sĩ về. Tôi chỉ ghi lại những gì tôi cảm nhận được, những gì tôi đã trải qua và những gì tôi mong muốn.
Khe Sanh lần đầu (5.2007)
Không nhớ rõ là ngày nào nữa, chỉ nhớ là khoảng tháng 5-2007. Công tác chuẩn bị về lương thực, thực phẩm, tiền hương, vàng mã do một cô ở Trung tâm lo liệu (Mình không muốn nêu lại tên của cô, vì hiện nay cô không còn làm việc tại Trung tâm nữa. Nhưng nếu không có cô ấy thì Trung tâm đã không thể đi và bản thân mình cũng không có cơ hội lăn lộn vùng đất ấy mà kể lại chuyện này). Còn thủ tục giấy tờ, công văn và công tác ngoại giao mình lo. Trước khi đoàn vào đến Quảng Trị thì cả Sở LĐ – TB&XH, Bộ chỉ huy quân sự, nhà nghỉ 27.7 đã biết mình và đã có lịch trình làm việc của đoàn tại Quảng Trị.
Chị em bà Thiêm, Thuy "khám bệnh" da liễu? Trong ảnh là chị em bà Thiêm - Thuy xem bệnh và chụp ảnh bà cụ bị loét, lở. Ảnh do PV thâm nhập vào vườn nhà bà Thiêm để ghi lại.
Theo kế hoạch thì thành phần đoàn ngoài gia đình liệt sĩ còn có thêm 2 nhân vật. Hai nhân vật này là Hoàng Thị Thiêm và Nguyễn Văn Biển. Sau cùng do “tiếc” (có lẽ là vậy) chuyến đi Nhật do hãng truyền thông Kyoto mời nên đã từ chối một cách không hợp lý lắm chuyến đi Khe Sanh của đoàn. Thay vào đó có 1 nhân vật được giới thiệu, chị này tên là Thoa – người Tuyên Quang là một cô đồng gọi hồn, áp vong. Ngoài ra còn có chú Phương và cô Đức Lưu (nhân vật Thị Mầu nổi tiếng 1 thời).
6h sáng cả đoàn có mặt tại bến xe Mỹ Đình. Mình là trưởng đoàn nên được ưu tiên ngồi cạnh chú Thành (chú Thành là em ruột của liệt sĩ Thịnh – thông qua web đã tìm được mộ nên theo ủng hộ và hỗ trợ). Qua Phủ Lý, qua Vinh, qua Hà Tĩnh, qua Quảng Bình. Lần đầu mình đi dọc tuyến đường Hà Nội – Quảng Trị nên không cảm nhận được gì.
Phóng viên Nguyễn Hân giả tâm thần, chị em bà Thiêm - Thuy ra sức bắt ma, chữa bệnh. Thế nhưng, trong ý kiến gửi VTC, bà Thiêm luôn từ chối việc chữa bệnh và yêu cầu VTC giải thích "thế nào là chữa đủ các bệnh trên trời dưới bể".
23h đêm hôm đó đoàn tới nhà nghỉ 27.7 và có thêm 2 nhân vật nữa nhập đoàn là 2 cháu gái liệt sĩ từ Quảng Ngãi vào, chị Bình và bạn Minh.
11h hôm sau, cả đoàn lại tiếp tục hành trình theo đường 9 từ Đông Hà vào làng Cát (Khe sanh, Hướng Hóa, Quảng Trị). 14h chiều tới làng Cát.
Nhìn lên trên là đỉnh núi cao ngút mắt, thở dài mà vẫn phải tươi tỉnh để mọi người an tâm bước tiếp. Hành trình chinh phục ngọn núi cao – nơi mà hơn 30 năm trước trên đỉnh là đồi Thằng Mỹ - là mục tiêu mà đại đội của chú Trần Minh Tiến cần phải tiêu diệt vào đêm ngày 28.5.1968.
Đêm ấy, mọi người ngủ trong rừng Trường Sơn.
Mình thiếp đi được một lúc. Giữa rừng Trường Sơn, trên là trời cao, quanh là rừng, dưới lưng là nền đất núi trải bạt mà ngủ ngon ơ, không muỗi, không vắt rừng, không mưa. Yên lành như nằm giữa cái giường êm ái của mình giữa lòng thủ đô Hà Nội ấy.
Trời sáng mờ mờ. Chưa kịp chuẩn bị gì thì gia đình của một liệt sĩ (giờ vẫn không nhớ tên chú ấy) – gia đình có 2 cậu cháu trai to béo khỏe mà lười và sợ ma ấy lục tục kéo nhau xuống núi. 2 cậu con trai và cô con gái liệt sĩ không nói năng gì, chỉ có bà em gái liệt sĩ ra nói chuyện: “Gia đình xin phép xuống trước vì chả hy vọng tìm được liệt sĩ. Chúc cả đoàn mạnh khỏe”.
TS Vũ Thế Khanh, Giám đốc Liên hiệp UIA: "Cô Thiêm không phải là nhà ngoại cảm, mà chỉ là người có khả năng đặc biệt, nhìn được bằng con mắt thứ ba. Liên hiệp UIA cũng không cấp bằng chứng nhận nhà ngoại cảm cho cô Thiêm". GS.TSKH Phan Anh (GĐ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) cũng khẳng định không cấp giấy chứng nhận nhà ngoại cảm cho bất kỳ ai.
Mình còn đang lục sục, một chị cháu gái của liệt sĩ Vũ Bá Đường và một cô thanh niên xung phong đi theo đoàn đã kéo nhau ra chỗ mà chiều tối qua liệt sĩ “nhập” chỉ chỗ.
Ăn sáng qua loa chút mì tôm, mình cố gắng nán lại để đợi BCH quân sự tỉnh Quảng Trị đưa lính vào giúp tìm kiếm. 4 chú bộ đội vác mấy cái bao sau lưng nhẹ hều. Mình giật giọng: “Hay nhỉ, các anh đi quy tập liệt sĩ mà không có dụng cụ đào bới hay đại khái là cuốc, xẻng gì sao?”. Mấy cậu lính trẻ cứ nhìn mình cười cười: “Có chị ạ, chị bình tĩnh, trông chị căng thẳng quá thế”.
Nhìn mãi mới thấy có con dao, rồi lôi trong bao tải ra nào là cuốc to cuốc bé, xẻng to, xẻng vừa vừa. Một cậu đi ngay sau lưng mình chặt bùm bụp mấy cành cây, tra cán xong, cậu ta cười: “Chị tính đi đường rừng trơn trượt như thế, đường là đường đèo có bằng phẳng gì đâu mà em mang theo mấy dụng cụ cồng kềnh được. Em chỉ mang đồ lên rồi lấy cây trên rừng tra cán thôi chị ạ. Chị đúng là người thành phố nên không hiểu đâu”.
Tổ mối vỡ, lẫn với đất, hay xương thịt liệt sĩ đã tan vào đất? Ảnh chụp trong chuyến bà Thiêm tìm mộ ở Trường Sơn.
Đang mải nói chuyện trên này thì khúc dưới ầm ầm, to tiếng như ai đang chửi bới nhau. Tiếng gào thét, tiếng la hét làm cả mình và mấy cậu lính giật mình hốt hoảng. Chạy vội lại thì mình hoảng lắm. Chị Dung – cháu liệt sĩ Đường, cô thanh niên xung phong ngoài 50 cứ nhảy lên chồm chồm, mắt vằn đỏ tay lăm lăm mấy cái xẻng không có cán: “Đào đi, đào mau lên, tao đang nằm ở đây này, mau lên, mau lên chứ”. Mấy cậu lính sợ quá làm theo, đào liên tục.
Đất liền thổ cứng quá, mấy cậu lính cứ lè lưỡi. Hố đào được nới rộng và sâu hơn. Tay rộp trầy xước hết cả. Cả đoàn đang tập trung thì tự dưng cô thanh niên đứng dậy hét to: “Tu tu, chúng mày ơi, sướng quá, tao sắp được về nhà rồi, tu tu sướng quá, chúng mày ơi, tu tu”. Rồi nhảy chân sáo lung tung quả đồi. Ối giời ôi. Sợ quá. Cô thanh niên xung phong ấy nhào ra chỗ khác, cách xa chỗ đang đào và hét lên như vậy. Mấy cậu lính và một vài anh thanh niên là cháu các liệt sĩ cũng nhào xuống đào giúp. Mình cũng không hiểu nhưng anh bên huyện đội huyện Darkrong bảo mình: “Em ơi, kinh nghiệm đất liền thổ thế này chẳng có hài cốt đâu, bọn anh có kinh nghiệm bọn anh biết, sâu hơn 1m và rộng thế này rồi có đào thế đào nữa cũng không có đâu. Ý em thế nào?”.
Xúc tổ mối lẫn đất ngay trên mặt đất.
Mọi người mệt quá. Trưa! Nắng đứng bóng chính ngọ. Mấy cậu lính ngừng việc mở lương khô và nước uống mang theo ra ăn. Mình mời mấy cậu ấy và anh chỉ huy trưởng hôm đó nhưng chỉ cười: “Dạ. Lính bọn em có đồ mang theo rồi, chị và các cô chú cứ ăn đi ạ”. Nhìn mấy cậu lính trẻ nhai mì tôm, uống nước chai mang theo dưới tán lá cây rừng và nhìn lại cả đoàn của mình trải bạt ăn cơm và mì gói mang theo tự dưng thấy nghẹn cổ họng.
Không gian yên lắng lạ thường. Mỗi người một ý nghĩ. Các cậu bộ đội xin phép xuống vì đã đào tới 2 chỗ mà không thấy gì cả. Cả đoàn nằm lăn ra bạt, ngay cạnh hố đất vừa đào. Điện thoại từ Sở lao động và BCH tỉnh Quảng Trị gọi liên tục: “Thôi cháu ạ, chiều nay cháu cho mọi người xuống núi đi Hằng nhé. Kinh nghiệm của bên quy tập họ đã báo cáo là không có hài cốt ở khu vực đang đào đâu cháu ạ. Xuống đi nhé”.
Tổ mối là xương sọ, còn đất là da thịt. Nhiều độc giả đã phẫn nộ, xót xa khi nhìn những tấm ảnh này.
Mệt quá, mình lăn ra ngủ. Ai muốn làm gì thì làm. 14h chiều đang còn ngái ngủ thì nghe mọi người hét ầm lên: “Tanh quá, như có mùi máu ấy”. Mình tỉnh ngủ: “Vớ vẩn, rừng thì khô mà nắng còn chưa tan, máu ở đâu? Tanh ở đâu ra? Vớ vẩn!”. Hơn 10 con người ấy đều công nhận có mùi máu tanh, còn duy nhất mình chả có cảm giác gì. Còn đang mải hít, ngửi xem có hay không thì chị Dung cháu liệt sĩ Đường lại thở hổn hển, giơ tay giơ chân ầm ĩ, huơ tay lên đầu, mặt tím ngắt, mắt đờ đẫn. Bên này thì cô thanh niên vỗ ngực bùm bụp: “Chúng mày có biết tao là ai không? Tao mà chưa về thì chưa thằng nào ở đây được về nhé”.
Lúc đó, mình sợ thực sự. Mình tròn mắt ra nhìn và quan sát. Quan sát gương mặt cô Bảy xem có gì khác lạ không? Xem gương mặt chị Dung – cháu liệt sĩ Đường. Chị này sau khi khua chân, múa tay, mắt đờ đẫn, mặt nhợt nhạt, hơi thở hổn hển thì lấy lại khí sắc nhưng gương mặt còn thất thần. Tỉnh lại thì nhào ngay xuống hố vừa đào gào ầm lên: “Ôi cậu ơi là cậu ơi, cháu không thể nào thấy xác cậu đâu cậu ơi. Xác cậu cháy thành tro bụi rồi còn đâu cậu ơi”.
Thật đau xót khi người thân không vái lạy liệt sĩ, mà vái tổ mối!
Vừa gào chị ấy vừa cào cào đất, vơ lấy vơ để mấy nắm đất, thả vội vàng mấy đồng tiền 500 giấy đỏ (tiền thật) xuống hố đất vừa đào. Mình thần người ra. Ai cũng im lặng. Cô L và chú S cùng vài người nữa vẫn kiên trì đi tiếp xuống dưới và đào bới tiếp. Dưới – là 1 khu rậm rạp, chưa có lối mòn. Mọi người phải phát cây rừng để đi. Theo “linh hồn” chú T.M.T nói thì có vài chú nằm chỗ đó. Đào mãi thì thấy mối ăn. Vài mảnh trắng trắng (không hiểu là cái gì).
“Anh đây” - tự dưng cô Bảy lại nói như vậy, mọi người chạy lại. Cô ấy đứng vắt vẻo. Một tay vịn cành cây, chân cứ đung đưa. Cô L hỏi: “Anh nào ạ?” “Anh đây, anh T đây”. Cô L òa khóc (sau này chính cô L nói đó là chú T vì chú ấy bị gãy chân lên chân đung đưa như thế). “Thế anh nằm đâu anh chỉ cho em với?” - cô L hỏi cô Bảy (mà khi đó theo mọi người là linh hồn chú T nhập vào cô Bảy). “Anh nằm ở đây chứ ở đâu? Nhưng còn gì nữa đâu. Thôi em về đi. Anh ở đây còn có đồng đội bạn bè”.
Cô L òa khóc tiếp rồi nhảy vội xuống cái hố vừa đào lấy cái khăn đỏ ra và bốc đất cho vào đó.
Rồi chả hiểu sao, cô đồng đi cùng lại đòi hút thuốc. Cô đồng bảo mình: “Thôi về đi cháu, các chú vẫn phải đi chiến đấu để bảo vệ vùng đất biên cương này. Về đi cháu”.
Độc giả chứng thực đây là đầu lâu hay tổ mối?
Cô L lấy đất xong, thắp hương xung quanh đó, không quên mang theo cái khăn có gói đất và những mảng trăng trắng ấy theo. Mọi người trở lại chỗ cũ. Chị Dung và gia đình liệt sĩ Xuân Tịnh đã bốc đủ đất gói thành 2 gói có bọc cờ đỏ sao vàng. Cả đoàn thắp hương khấn thần núi, thần sông, các linh hồn liệt sĩ và xuống núi cùng 3 gói đất (1 của gia đình liệt sĩ Vũ Bá Đường, 1 của gia đình bác liệt sĩ Xuân Tịnh, 3 là nắm đất nhỏ của cô L).
Cả đoàn về lại nhà nghỉ 27.7. Mình cho tổ chức một cuộc giao lưu ngay đêm đó tại 27.7. Đại diện có Sở LĐTB&XH, BCH quân sự tỉnh, nhà nghỉ 27.7, thân nhân liệt sĩ tại nhà nghỉ và cả đoàn.
Thay mặt mọi người, mình cảm ơn và báo cáo công việc của đoàn tại Khe Sanh. Anh Chí – giám đốc nhà nghỉ 27.7 khi đó có phát biểu 1 vài câu (mình không nhớ chi tiết nhưng có ý không chấp nhận những câu chuyện mà mọi người kể khi ở Khe Sanh). Tự dưng, cô đồng nhảy dựng lên quát: “L về thôi, lên thôi, anh không ở đây nữa đâu”.
Hai cục vật chất nhặt ở trên quả núi rộng lớn này liệu có phải đèn ba pin? Lấy gì để khẳng định nó là đèn ba pin của liệt sỹ Tiến?
Cục gỉ được gói cùng với đất, mối thành liệt sĩ.
Mọi người lục tục kéo lên, mình nán lại nói chuyện thêm với mọi người. Sau đó mọi người có kể lại là cô đồng giãy lên, làm ầm ĩ một lúc rồi thôi. Sáng sớm hôm sau, mình và chú Thành – em trai liệt sĩ Thịnh đang yên nghỉ tại nghĩa trang huyện Triệu Phong tranh thủ ra thắp hương và chào liệt sĩ Thịnh để về lại Hà Nội.
Cả đoàn ra về. Tối khuya về tới Hà Nội, chú Thành đưa mọi người ra cầu Long Biên và thả toàn bộ gói đất mà cô L mang về xuống dòng sông Hồng cho linh hồn các chú ấy được mát mẻ.
Làng Cát (Khe Sanh) lần 2 (tháng 5.2008)
Sau chuyến đi Khe sanh lần 1, mình vẫn còn lơ ngơ. Những sự kiện được chứng kiến như liệt sĩ A, liệt sĩ B “nhập” về chỉ mộ, mình vẫn biết mà để đó, chưa có ý kiến gì cả. Tất cả những gì mình làm sau đó và kể cả lần đi Khe Sanh thứ 2 cũng do cô L thu xếp. Mình chỉ quyết về kế hoạch và đường lối làm việc.
Trở lại sư 308 để tìm thêm thông tin về trận đánh cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1968 tại sư đoàn thấy con số liệt sĩ hy sinh không phải là vài chục mà lên tới vài trăm. Trong danh sách liệt sĩ có một cái tên khiến mình chú ý: Trương Triệu Quý. Bác này lạ là phần đơn vị ghi là E88 trong khi các chú kia, có cả chú T.M.T ghi là E102. Thú vị hơn là phần nguyên quán ghi là Yên Phong (sau này mới biết chú nguyên gốc là dân Hà Bắc) nhưng thân nhân lại ghi 189 Trần Nguyên Hãn, Hải Phòng.
Khi đó lạ lắm, không hiểu cái gì cả. Mãi sau này khi đã nắm thêm được thông tin và tự mình đọc rất kỹ lịch sử sư 308 thì mới hiểu Sư 308 có 2 sư đoàn lớn là 102 ký hiệu là E102 (trung đoàn Thủ đô) và 88 ký hiệu là E88 (Trung đoàn Tu Vũ). Sau thời kỳ 1968 thì Trung đoàn Tu Vũ không chiến đấu tại Quảng Trị mà tiến lên Tây Nguyên, rồi thẳng vào Đông Nam Bộ sáp nhập vào sư đoàn 1, rồi sư 5, rồi sư 9.
Hình ảnh bà Thuy xúc tổ mối ở ngay mặt đất, chứ không phải dưới hố đã đào từ năm 2007.
Nhìn chằm chằm vào dòng thông tin của chú Trương Triệu Quý có một cảm giác rất lạ mà chưa thể giải thích nổi. Có gì đó cứ thôi thúc mình. Về Hải Phòng nhiều lần nhưng không quyết tâm tìm mà chỉ nghĩ cần tìm thôi. Vài lần như vậy thành ra phải “chỉ đạo” cho đồng chí Hùng - con 1 liệt sĩ và là Trưởng đại diện của Marin ở Hải Phòng: “Anh tìm cho được thân nhân của chú này xem tình hình thế nào?”.
Sau 2 tuần thì vào một ngày nắng chang chang, mình có điện thoại. Khi đó đang đứng giữa sân của tập đoàn PRIME. Nắng lắm! Chị ấy xưng là cháu gái của liệt sĩ Trương Triệu Quý đang gọi từ Hải Phòng. Một khoảng cách gần 200km mà người mình da gà nổi hết lên. Đó là thời điểm giữa tháng 4 năm 2008.
Đầu tháng 5.2008, một cuộc họp mở rộng cho thân nhân gia đình liệt sĩ sư 308 hy sinh năm 1968 đã được tổ chức tại văn phòng Marin ở HN. Tham gia có 7 gia đình thân nhân liệt sĩ, đại diện Marin, nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài. Buổi họp để chuẩn bị cho chuyến vào Trường Sơn lần 2.
Nhà báo Đào Thanh Tuy ngồi chứng thực cảnh bà Thuy đào tổ mối ngay mặt đất, chỉ sâu có vài cm, thế mà bà Thiêm khẳng định là hài cốt và đợt đó là đào tiếp ở hố đã đào năm 2007.
5h ngày 5.5.2008, anh Hùng đã gọi cửa. Mình dậy lúc 4h. Mọi công tác chuẩn bị có cô L lo liệu.
Đoàn xe của thân nhân liệt sĩ hơn 10 người. Đoàn xe Trung tâm ngoài xe chú Thành 12 chỗ có thêm xe anh Hùng 4 chỗ từ Hải Phòng lên.
Xe qua bách hóa Tổng hợp Thanh Xuân đón em Đào Thanh Tuy - Báo Nông thôn ngày nay.
Xe chạy tới cầu Hà Đông đón thêm bạn cô L và cũng là bạn học của liệt sĩ T.M.T, đón thêm 2 phóng viên là em Bình - Báo Lao động xã hội và em Dũng – Báo Khoa học đời sống.
Qua Thanh Hóa đón thêm 3 người nữa là Hoàng Thị Thiêm, Thuy (Thuy là em gái Thiêm) và chồng của Thiêm. Chả ai chào hỏi ai.
Lên đường
Tối muộn ngày 5.5.2008, cả đoàn mới tới nhà nghỉ 27.7. Chú Bằng và chú Hùng (Sở LĐTB&XH Quảng Trị) đã bố trí sẵn nên việc lấy phòng, nghỉ ngơi cũng không có chuyện gì nhiều. Nhưng cả chặng đường mình rất lo lắng một chuyện. Ngay đêm đó chị Hoài đề nghị mình cho gặp gia đình liệt sĩ Quý. Mình mời cháu liệt sĩ sang, chị Hoài có hỏi một vài thông tin (Chuyện tìm kiếm liệt sĩ Quý và chi tiết từ lúc chị Hoài gặp anh Dương và tìm ra chú Quý - chi tiết tại Hành trình tìm liệt sĩ của www.nhantimdongdoi.org).
Khi anh Dương ra khỏi phòng, chị Hoài có nói: “Rắc rối quá em ạ, hay cho chị về lại Hà Nội thôi, chị không vào Khe Sanh đâu. Vụ này phức tạp và có nhiều chuyện lắm em ơi. Cho chị về”.
Nhà báo Nguyễn Dũng (áo cam) ngồi xem đào tổ mối ngay mặt đất.
Mình chỉ nói: “Đã tới đây, chị phải giúp em, chuyện đâu còn có đó, em có thể mời bất cứ ai ra khỏi đoàn nếu làm ảnh hưởng đến công việc chung. Mục đích của chuyến đi đã thống nhất ngay từ đầu tìm được chú nào thì tốt, còn chủ yếu là cầu siêu cho nhóm liệt sĩ hy sinh trong đợt 28.5.1968 của sư 308, chị an tâm”.
Ăn sáng xong cả đoàn vào chợ Đông Hà mua sắm thêm. Từ chợ Đông Hà cả đoàn lại lên Khe Sanh. Qua nghĩa trang liệt sĩ huyện Hướng Hóa cả đoàn vào thắp hương, duy chỉ có mình và Hoài ngồi lại xe.
Chiều cả đoàn vào làng Cát. Nó vẫn thế, chỉ duy nhất một điều là bọn trẻ con thân thiện hơn. Chúng nó kéo hết ra chào đón đoàn. Và đây là lần đầu tiên mình vào bản của dân làng Cát. Cả bản có hơn 20 nóc nhà. Trẻ con toàn áo một manh, quần một mảnh, có đứa còn cởi truồng, chân đất.
Người trong bản là dân tộc Vân Kiều nên ai cũng đen nhẻm đen nhèm. Nhà trưởng bản có một cái tivi cũ kỹ xem ra không có cái tivi nào cũ bằng. Nhà tối thui, dưới sàn là gà và lợn mọi. Chúng cứ quang quác vì người lạ đông quá, bọn trẻ con thì bu đen dưới chân nhà sàn. Chia bánh kẹo xong, cô L vào vấn đề là muốn tìm liệt sĩ và nhờ bản giúp.
Đây là chiếc răng cửa? Nhà ngoại cảm tin là răng cửa, nhưng các nhà báo đi theo không tin. Răng là hợp chất cực bền, chả kém gì đá, có thể tồn tại cả ngàn năm trong lòng đất, chứ mới mấy chục năm mà đã thế này thì khó tin lắm.
Xì xồ rồi lại xì xồ, bọn trẻ phiên dịch lại cho lớp người già, và trả lời thay cho người già. Tiền cúng thần núi, thần sông xin tìm liệt sĩ được trao cho trưởng bản và đoàn lại hành trình lên cao điểm Rolo.
Lại leo núi. Mình cứ bám vào anh Hùng và thằng em Tuy. Lần này có các anh và các em theo cùng nên mình không vất vả, khổ sở như lần trước. Từ đây mình mới chú ý tới cháu liệt sĩ Quý, tức Trương Thái Dương. Anh này đậm người. Cứ leo một khúc lại ngồi lại thở dốc, mặt đỏ bừng như chú Tiến. Thở, nghỉ, leo tiếp. Mấy thằng bé dân tộc đi theo có thêm việc làm mang giúp đồ cho mọi người. Chúng nó cứ thoăn thoắt còn người Kinh thì cứ than cao quá, mệt quá, mỏi quá.
Mình lầm lũi đi sau chị Hoài và nhóm anh Hùng.
Trường Sơn vẫn thế. 1 năm qua đi các chú ấy vẫn còn đâu đó loanh quanh vùng núi này.
Chiều chạng vạng đoàn cũng lên tới nơi. Lần này thanh niên, nhà báo theo nhiều và mình đã từng đi một lần rồi nên cũng thảnh thơi.
Người thân các liệt sỹ tin nhà ngoại cảm nên cứ thế bốc đất và tổ mối.
Sự việc rồi sẽ về đâu???
Đón xem Kỳ 2
Ngô Thị Thúy Hằng (Lược trích từ blog cá nhân, đăng ngày 01-12-2009)
Theo vtc.vn
Bài liên quan: