Chị Ngô Thị Thúy Hằng, Giám đốc Marin, người tổ chức cuộc tìm mộ ở Trường Sơn, cũng là tác giả của bài viết này.
Vào cuộc
Theo ý kiến của mọi người, đoàn tập trung xa hơn chỗ năm ngoái khoảng 500m (chỗ này bằng phẳng hơn, thoáng đãng hơn và gần với khu vực đào năm ngoái hơn).
Vừa đặt ba lô là trời sầm xuống. 3 cậu nhà báo và mấy cậu thanh niên con cháu liệt sĩ vội vàng chặt cây rừng căng bạt làm lều trại. Lều sắp xong thì mưa. Mưa rừng. Ào ào. Bạt không đủ kín. Thấm nước mưa. Nhìn ra xung quanh rừng âm u. Mưa rừng đến rồi đi cũng nhanh. Mọi người bắt đầu chuẩn bị cơm nước. Rau ngót khô, gạo, mỳ gói mang theo, củi là cây khô trong rừng. Khói nghi ngút. Cơm vừa xong là chiều tối sẫm. Ánh lửa bập bùng.
Nhà báo Tuy và nhà báo Dũng lĩnh xướng những bài hát về Trường Sơn, về bác Hồ. Lửa vẫn bập bùng. Mình cũng tham gia cổ vũ cho mọi người. Chồng Thiêm chả hiểu sao tự dưng mắc võng tận phía bìa ngoài, hì hục tìm cành cây treo võng. Anh Dương cháu chú Quý cũng kiếm cho mình một chỗ gần lán trại. Còn lại chui hết cả vào trong lán. Lần này mình bớt ngu hơn lần trước nên tranh thủ ngủ. Đâu có đó tiếng thì thầm. Chồng Thiêm tự dưng nhảy lên đùng đùng rồi khóc, rồi cười. Vớ vẩn.
Nhà báo Dũng (trái), chú Tiến và nhà báo Tuy (phải) thể hiện tài năng ca hát.
Nhà báo Đào Thanh Tuy bưng một "bộ hài cốt" tổ mối. Khi anh đào hố làm bếp, phát hiện tổ mối, lập tức mọi người xúm vào khẳng định là... hài cốt.
Đêm lạnh quá, nên dậy sớm, đã thấy chị Hoài đang nói gì đó với anh Dương. Trời sáng dần dần. Lục tục thay nhau đánh răng. Cháo, mỳ ăn sáng. Anh Hùng gọi mình ra. Hóa ra đêm qua Hoài đã ngồi vẽ lại nơi chôn cất chú Quý. Hoài nói nhanh với mình: “Ông Quý không chết ở đây mà chết bên kia. Mình tin chị Hoài”.
Cô L xăm xăm dẫn đoàn gia đình liệt sĩ xuống cái vực mà năm ngoái đã tìm chú T.M.T ở đó. Nhẽ ra mình phải ngồi lại ngay lán trại để điều phối các hoạt động nhưng không hiểu tại sao lại quyết định đi theo chị Hoài. Anh Dương, anh Hùng đi theo. Cô L đi rồi thì thằng bé dân tộc mới lò mò lên. Anh Dương túm luôn nó hỏi. Anh ấy đưa hình chụp năm ngoái hỏi nó có biết chỗ này không? Nó bảo có.
Thế là bỏ lại sau lưng đoàn gia đình liệt sĩ (họ đã theo cô L và Hoàng Thị Thiêm xuống vực phía dưới), mình đi theo hướng tiến vào sâu hơn. Không dám dừng lại cứ cắm đầu mà đi. Đi hết con dốc này đến con dốc khác. Chợt nghĩ! Sao mình liều thế. Nhỡ chết ở cánh rừng hoang vắng này, biết đâu mà tìm. Anh Dương cháu chú Triệu Quý đi trước, Hoài tiếp, mình bám theo anh Hùng. Cứ lầm lũi đi.
Bà Thuy đang xúc đất và mối.
Lúc đầu còn hồ hởi, càng đi càng vào sâu, càng không thấy đường. Trên đầu là rừng già, men theo cây rừng mà đi. Vắt rừng! Cả đời chưa thấy vắt chỉ nhìn thấy con đỉa ở những mớ rau mẹ mua. Sau cơn mưa đêm, vắt rừng như lá cây rừng. Nó quăng mình bám chặt vào da thịt. Máu và máu, tanh tưởi khắp người. Lọ cao mang theo xoa cho bằng hết vẫn không tránh nổi vắt. Loài vắt nhỏ hơn con đỉa, bé hơn con sâu đo. Đi có nhanh cỡ nào vắt cũng bám được vào người. Lúc đầu còn rú lên vì sợ và đau. Sau không còn sức để rú nữa. Mặc vắt. Sau chỉ kịp vừa chạy, vừa đi vừa gạt vắt không dám dừng lại một giây phút nào.
Mấy chị em tranh nhau rửa chân và lau mặt, tranh thủ tìm và gạt những con vắt còn lại trên người. Anh Dương thở hắt ra vì mệt. Mình không nói câu nào. Nhìn vách đá và dòng suối lạnh mà sợ. Chưa khi nào mình có cảm giác sợ chết như thế.
Mình nhất định không đi nữa. Quay về thôi, nếu chiều không qua được con suối này, nước suối lên chết cả lũ. Chân lạnh cóng vì nước suối. Ngửa đầu lên thấy những giò phong lan rừng đẹp mê hồn. Cao quá. Mím chặt môi, cương quyết: “Phải nghe em vì em vẫn là trưởng đoàn, về lại nơi xuất phát thôi. Không thể tìm được”. Anh Dương mệt, anh Hùng cũng mệt. Chị Hoài cứ cố: “Đi thêm chút nữa”. Cậu dân tộc cũng hốt hoảng: “Lạc đường rồi, tao quên rồi, chúng mày đứng đây để tao cắt rừng tìm đường về”.
Chỉ trong vòng một ngày ngắn ngủi, mà chị em bà Thiêm - Thuy đã tìm được 8 bộ hài cốt trên đồi Yên Ngựa. Tuy nhiên, các PV theo đoàn chỉ tin đó là tổ mối.
Chưa kịp nói gì cậu dân tộc đã biến mất sau những tán cây rừng. Đợi khoảng hơn 30 phút, chính chị Hoài phải hét lên: “Lấy cây rừng đánh dấu mũi tên đi, về thôi”.
Quay lại. Cả chặng đường lại chạy vắt. Mình gọi cho Tuy. Tuy bảo: “Nó bảo tìm được 8 chú rồi nhưng chuyện còn dài, ra em sẽ kể”. Cả đoàn hơi chưng hửng.
Cả đoàn tới nơi tập kết khoảng 4h chiều. Nhóm cô L, Hoàng Thị Thiêm, Thuy và gia đình cũng lần lượt kéo ra. Mình nhìn thấy vài “gói tròn bọc lá cờ Tổ quốc”.
Trời chiều. Trường Sơn lạ lắm. Nắng không còn chiếu thẳng mà lấp ló trên những tán cây. Mình xuống tới nơi nhưng tâm trạng rất căng thẳng. Phần vì nhóm đi tìm chú Quý không có kết quả, phần vì nhóm cô L tìm thấy 8 chú. Khu lán trại vui không ra vui, buồn không ra buồn. Mỗi người một tâm trạng. Thân nhân liệt sĩ có người thẫn thờ ngồi nhìn xuống khu vực đang đào bới, người thì thấy mình là muốn hỏi ngay.
Bà Hoàng Thị Thuy đang cố giải thích đất, tổ mối, rễ cây, tạp chất... là xương cốt, thịt da cho ông Sinh hiểu.
Bọn em Tuy (nhà báo) thì nhìn mặt rất khác lạ. Chúng chả nói chả cười. Mình hỏi ngay Tuy:
- Sao em?
- Thì tìm được 8 chú, vong nhập vào chỉ nhưng chỉ có đất đen?
- Di vật thế nào?
- Không có gì, cô L có nói có cái nắp đèn pin nhưng em cũng không biết có đúng không?
- Theo em nên thế nào?
- Chị phải có ý kiến.
- Ừ!
- Theo em nên làm 1 cái bia là tìm tới đây thôi. Tuy nhiên còn tùy gia đình chị ạ. Bọn em chán quá nên xuống suối tắm rồi, sau em cũng chả biết cụ thể thế nào cả.
Mình quay ra hỏi gia đình liệt sĩ. Có một chú là em trai của liệt sĩ nói (mình quên tên chú liệt sĩ này): “Tôi cũng không rõ. Nhập vào mấy cô kia chỉ mộ nhưng có thấy gì đâu cô? Tôi cũng không biết. Thôi, cũng gói vào rồi xin chuyển vào nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, chứ gia đình tôi không có căn cứ mà mang về quê”.
Cậu cháu liệt sĩ An thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại: “Thôi, để lại nghĩa trang Đường 9, chứ có gì đâu mà dám chắc là liệt sĩ nhà mình”.
Duy chỉ có một gia đình liệt sĩ ở Ninh Bình (tên là gì mình cũng không nhớ rõ) và cô L là hồ hởi nhận.
Khi đó, ai cũng mệt, anh Dương và chị Hoài – Hùng cùng muốn xuống luôn trong chiều. Mình quyết định xuống.
Nhà báo dựa vào hàng trăm tấm ảnh chụp tổ mối để khẳng định đây là tổ mối. Còn bà Thiêm khẳng định đây là hài cốt, thì cần phải chứng minh bằng khoa học.
Có thật là quy tập được 8 bộ hài cốt?
Cả đoàn thu dọn đồ đạc. Mình dửng dưng. Không có chút cảm xúc vui buồn. Bỏ lại sau lưng là cánh rừng Trường Sơn, là một trận lạc rừng tưởng chết bởi vách núi cao, nước suối lạnh và những con vắt tanh nồng mùi máu tươi.
Xuống tới làng Cát đã có xe của BCH quân sự tỉnh Quảng Trị đón. Chào hỏi xong mình quay ra chỗ chú Thành. Khi chú nghe báo tìm được liệt sĩ T.M.T chú có cố gắng trèo lên cao điểm nhưng tới đó không chụp hình được vì không ai cho quay phim cả. Có một chi tiết cô L nói là một chân liệt sĩ T.M.T bị văng ra nên chú Thành bảo cố tìm cái chân đó thế nào cũng có dép hay giầy thì đó là di vật duy nhất để xác minh có đúng là tìm được hài cốt hay không? Nhưng tìm mãi mà không thấy nên thôi.
Không còn tổ mối thì bê nguyên đất vào lá cờ Tổ quốc rồi gói lại, biến thành cốt liệt sỹ.
Mình và cô L không nói chuyện với nhau, Hoàng Thị Thiêm và em gái, chồng thì cứ nói những gì đó mà mình không nghe. Đoàn chia 2 nhóm. Nhóm chị Hoài, anh Dương tách đoàn về thẳng nhà nghỉ Khe Sanh chuẩn bị cho việc tìm chú Trương Triệu Quý tiếp theo. Nhóm còn lại về huyện đội Dakrong.
Cả đoàn qua huyện đội Dakrong. Buổi làm việc diễn ra trong ánh đèn pin, dầu vì hôm đó khu vực này mất điện. Mình chưa có ý kiến chỉ ngồi nghe họ nói.
Sau đó mình có điện thoại gọi từ Quảng Bình báo việc làm lễ truy điệu ngày mai tại NTLS Ba Dốc nên mọi việc sau đó thế nào chỉ nghe em Tuy và cánh nhà báo kể lại. Huyện đội công bố mỗi người trong đoàn có 300.000 đồng cho việc tìm kiếm (cái này rất mới so với năm ngoái và mình cần cung cấp thông tin cho thân nhân liệt sĩ biết). Tổng số tiền hôm đó, ngoài nhóm thân nhân liệt sĩ còn người của Trung tâm, nhà báo, thì toàn bộ chuyển cho cô L để góp cho chuyến đi. Mãi sau này khi về Hà Nội, em Tuy (báo Nông thôn ngày nay), em Dũng ( báo Khoa học và Đời sống), em Bình (báo Lao động xã hội) mới bảo là: “Khi chị đi rồi cứ rối tung lên, bên BCH quân sự tỉnh Quảng Trị xác nhận tìm được 8 liệt sĩ, bọn em cứ vặn hỏi “các anh căn cứ vào đâu mà bảo đó là hài cốt liệt sĩ, xương không có, di vật không?”. Em hỏi họ cũng không trả lời và bọn em cũng không muốn xoáy sâu vào nữa”.
Mình nghe điện thoại xong thì bên trong cũng đã vãn họp. Mình có gặp chỉ huy của huyện đội Dakrong cảm ơn. Quay ra thì bàn hương hoa quả cũng đã bày đủ lễ lạt. Cả đoàn lên ô tô về nhà nghỉ 27.7.
Khi mình mê mệt ở khách sạn thì cả đoàn vào huyện đội Dakrong để ký giấy tờ bàn giao và ký nhận tiền quy tập. Có chi tiết rất hay là không hiểu sao Hoàng Thị Thiêm, chồng Thiêm và em gái Thiêm lại ra về ngay sau buổi làm việc với huyện đội Dakrong tối hôm qua. Nghe anh lái xe nói lại là thấy đứng lơ ngơ ở cổng nhà nghỉ 27.7 nên anh đưa ra bến ô tô. Suốt cả chặng ra bến cứ luôn mồm nói: “Hằng chả ra sao. Đã tìm được những 8 liệt sĩ mà không thèm cảm ơn hay hỏi han gì!”.
Ngay khi nằm trong khách sạn lúc mê mê tỉnh tỉnh thì mình đã kịp lên kế hoạch cho ngày mai: Tham gia truy điệu buổi sáng, chiều làm cầu siêu. Hôm sau về Hà Nội sớm.
Ngay khi từ trong rừng ra đến lán trại nhìn thấy cảnh mấy bọc phủ cờ đỏ mình đã nhủ thầm trong đầu và tuân thủ theo ý nghĩ: Không biết có phải là 8 hài cốt của các chú không vì cháu không chứng kiến việc đào bới, nhưng thôi linh hồn 8 chú cứ theo đó mà về cho có nơi có chốn. Ai làm sai người ấy chịu.
Đêm đó mình ngủ ngon. Sáng sớm cả đoàn lại lục tục kéo nhau vào Dakrong để cùng huyện đội bàn giao liệt sĩ cho BCH quân sự tỉnh làm truy điệu tại nghĩa trang liệt sĩ Đường 9. Ban bệ đủ cả. Đông đúc lạ thường. Hương khói nghi ngút.
Mình không thể không cúi lạy và thắp hương vì có quá nhiều người nhìn vào mình, quan sát những hành động của mình. Mình thắp hương và lại khấn: “Lạy các chú, cháu không biết có phải hài cốt của 8 chú không? Nhưng thôi mong linh hồn các chú theo về để có mồ có mả có lối mà đi về. Ai làm sai người đó chịu”.
Truy điệu cho các liệt sĩ. Chị Ngô Thị Thúy Hằng (áo đỏ) chắp tay: "Ai làm sai người đó chịu".
Đoàn tới nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 khoảng 8h sáng. Nghĩa trang đông hơn thường ngày. May mắn là có nhóm liệt sĩ được quy tập từ Lào về nên các chú thuộc sư 308 cũng được tham dự lễ truy điệu mang nghi thức quốc tế: Đại diện Bộ quốc Phòng Lào, đại diện Bộ Quốc phòng Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, các ban ngành của tỉnh Quảng Trị…
Ngôi chùa nằm khuất ngay sau nghĩa trang liệt sĩ huyện Triệu Phong, yên tĩnh và thoáng mát. Lễ cầu siêu diễn ra trong vòng hơn 3h đồng hồ. Danh sách hơn 200 liệt sĩ của sư 308 được cầu siêu cũng giúp mình thấy thanh thản và bình yên hơn. Thôi thì đâu cũng sông núi quê hương. Mong linh hồn các chú sớm siêu thoát.
Đêm đó đoàn về lại nhà nghỉ 27.7 để sáng sớm hôm sau ngược về lại Hà Nội kết thúc hành trình Khe Sanh lần 2 năm 2008.
Chưa có hồi kết
Chuyến vào Khe Sanh lần hai chưa chấm dứt ở đó vì sau chuyến đi còn bao nhiêu chuyện xảy ra. Chị Hoài vẫn tiếp tục hành trình tìm chú Quý để chứng minh rằng cũng 40 năm đấy, liệt sĩ Quý khi tìm thấy còn nguyên tăng võng, nguyên quần áo thắt lưng, xương cốt vẹn toàn, cách xa khu vực đoàn tìm hơn 5km đường rừng và theo hướng khác. Phóng sự dài kỳ bên báo Nông thôn ngày nay do phóng viên Đào Thanh Tuy viết sau đó có rất nhiều thư nặc danh, tin nhắn gửi tới tòa soạn và bản thân tôi cũng nhận được nhiều tin nhắn nặc danh lời lẽ rất vô văn hóa và hằn học. Thêm nữa là tin gửi nặc danh tự xưng là Cựu chiến binh Trung đoàn 102, sư 308 nhắn trên phần Liên hệ của www.nhantimdongdoi.org. Càng nghĩ tôi càng thấy thương cho những người đã nhắn tin nói những điều không đúng.
Và quan trọng hơn là tôi hiểu, ngộ ra rằng trong cuộc đời này, ai sai ai đúng ta cũng không cần phải xét nét hay khó chịu, hay đau khổ. Sự thật về 2 chuyến tìm mộ Khe Sanh đã tự nói lên tất cả. Những tình tiết sự việc là một minh chứng chân thật nhất mà bản thân tôi không thể bịa đặt ra.
Bà Thiêm căn cứ vào hai tấm giấy này (một cái xác nhận là cộng tác viên, một cái huy hiệu do Bộ môn Cận tâm lý tặng) để khẳng định mình là nhà ngoại cảm và yêu cầu các nhà báo phải gọi bà là nhà ngoại cảm. Nếu vậy, bất cứ ai viết được bài báo, dù chỉ là cộng tác viên, không cần được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp thẻ nhà báo, thì người đó nghiễm nhiên thành... nhà báo?
Hậu Khe Sanh
Sau 2 chuyến đi Khe Sanh tìm mộ liệt sĩ đó, tôi nhận thức được hai điều:
Một là chiến tranh quá ác liệt. Mậu Thân năm 1968 đã cướp khi không biết bao sinh mạng. Đợt tấn công thứ 2 sau Mậu Thân là tháng 5.1968 và đợt tấn công thứ 3 là tháng 8 năm 1968 cũng gây ra những tổn thất to lớn cho cả hai bên. Có đi tôi mới biết thế nào là rừng, là núi, là vực cao, đèo sâu, là vắt, là muỗi, thế nào là gian nan vất vả.
Tôi đi khi thời bình, trên đầu là bầu trời trong veo không có máy bay, không có đạn pháo. Tôi đi khi cơm vừa ăn xong, nước đeo đầy sau lưng không đói cơm, khát nước. Còn các chú, nào là đói là bệnh, là máy bay, là pháo, là đối phương luôn rình rập, là chuỗi ngày dài hành quân. Sự khốc liệt của chiến tranh không còn là những dòng thông tin ngắn ngủi trên những cuốn vở học trò mà nó hiện ngay trước mắt, nó nằm trong những cuốn sổ còn ghi rõ dòng chữ: tài liệu mật, tuyệt mật, còn hằn rõ, nơi hy sinh, trường hợp hy sinh của từng liệt sĩ và hơn hết nó hằn lên trong đôi mắt còn nguyên nỗi kinh hoàng của thân nhân chú Vũ Bá Đường, còn vang vọng trong tiếng la thất thanh của chị ấy: “Ới chú ơi, làm sao mà cháu tìm được chú đây, thân xác chú tan tành theo lửa, theo đạn bom rồi, làm gì còn thân xác mà tìm chú ơi”.
Trẻ con làng Cát.
Càng đi tôi càng hiểu và càng thấm thía hơn nỗi đau của chiến tranh. Tôi hiểu và trân trọng hơn bao giờ hết giá trị của hòa bình, giá trị của sự hy sinh mà các liệt sĩ đã mang lại cho tôi hôm nay. Thế nên, việc tìm thấy một bộ hài cốt liệt sĩ tại nước bạn hay tại Việt Nam, thậm chí có chút manh mối gì về nơi chôn cất thực tế của liệt sĩ đều không thể tính bằng vật chất. Vì vậy mỗi chúng ta hãy nên nâng niu và có trách nhiệm hơn trong việc tìm kiếm liệt sĩ.
Điều thứ hai mà tôi nhận thức được là chết chưa hẳn đã hết. Nếu hết thì không thể có chuyện liệt sĩ Trương Triệu Quý hướng dẫn và kết nối các đầu mối để các cháu của chú ấy có thể tìm ra thân xác của chú ấy giữa đại ngàn Trường Sơn hoang vắng như vậy. Chính linh hồn của liệt sĩ đã dẫn dắt con cháu đi tìm chú ấy.
Liệt sĩ Trương Triệu Quý được tìm thấy cách khu vực làng Cát 5km. Hài cốt của chú được bọc tăng, võng, quần áo còn nguyên vẹn. Cháu trai của liệt sĩ là anh Trương Thái Dương đã phải dùng dao để gửi lại rừng già Trường Sơn một phần thịt da chú, còn lại phần cốt mang về quê hương tại Hải Phòng.
Sau chuyện này, tôi có thể khẳng định 8 ngôi mộ mà năm 2008, tôi có tổ chức đoàn thân nhân liệt sĩ đi tìm và đã chuyển về nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 là hoàn toàn không có cốt. Đó là một bài học xương máu trong công việc của tôi.
Chú Sơn – cựu chiến binh đi theo đoàn không phải là trợ lý tác chiến như tôi đã hiểu nhầm mà chỉ là một chiến sĩ. Hiện nay tôi vẫn đang tìm hiểu xem nơi chôn cất các liệt sĩ hy sinh đợt phản công lần thứ 2 vào tháng 5 năm 1968 tại cao điểm Rolo năm đó ở đâu và liệu các chú có được chôn cất hay không?
Thông tin từ các cựu chiến binh Trung đoàn 102 cho biết là họ đang vận động, quyên góp tiền để xây dựng bia tưởng niệm chung cho tất cả các liệt sĩ (hơn 5000 liệt sĩ của sư đoàn 308) đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị chưa tìm được thân xác đã giúp tôi có thêm niềm tin và hy vọng vào công việc mà tôi và các thành viên của Trung tâm đang làm. Vì bên cạnh tôi không chỉ có gia đình liệt sĩ mà còn có rất nhiều cựu chiến binh – những người chiến sĩ trở về sau chiến tranh hiểu hơn hết công việc mà chúng tôi đang làm.
Ngô Thị Thúy Hằng (Lược trích từ blog cá nhân, đăng ngày 01-12-2009)
Theo vtc.vn
Bài liên quan:
Sự thật sáng tỏ cuộc tìm mộ bằng ngoại cảm ở Trường Sơn (Kỳ 1)